Những điều cần biết để phối hơp hữu hiệu các cách trị ung thư khi cần
Các bạn có biết là ở Úc liệu pháp hoá trị (chemotherapy) chỉ giúp 2,3% bệnh nhân ung thư sống hơn 5 năm từ khi biết bị ung thư không? Ở Mỹ thì thấp hơn - 2,1%(Theo nghiên cứu của 3 chuyên gia làm việc ở các bệnh viện trị ung thư ở Sydney). Nói cho dễ hiểu chỉ có 2.3% bệnh nhân ung thư sống thêm hơn 5 năm nếu chỉ dùng hoá trị.
Có lẽ phần lớn chúng ta đều chỉ biết khi bị ung thư thì giải phẫu, hoá trị và xạ trị là ba cách trị ung thư chủ yếu. Thật ra còn nhiều cách trị ung thư khác đang được sử dụng. Tây y còn có thêm liệu pháp miễn dịch, liệu pháp hóc môn. Ngoài hệ thống Tây y thì có cách trị ung thư bằng Nhịn ăn, Dinh dưỡng chống ung thư, và dùng thuốc ngoài chỉ định.
Tây y thường không chỉ dùng một liệu pháp mà thường phối hơp nhiều liệu pháp Tây y theo nhu cầu và kết quả. Họ có thể dùng giãi phẫu, rồi hoá trị và xạ trị cho một bệnh nhân. Trừ một số bác sĩ Tây y chịu đọc tài liệu nghiên cứu y học liên quan đến dinh dưỡng, phần lớn họ không phối hơp với liệu pháp tự nhiên và có thể ngăn cản sự phối hợp đó.
Việc phối hơp Tây y với các biện pháp nhịn ăn và dinh dưỡng phải do bệnh nhân và gia đình bệnh nhân chủ động. Lý do là phần lớn bác sĩ Tây không có thì giờ đọc các tập san y học ngoài chuyên môn của họ. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng và kinh nghiệm của nhiều bệnh nhân cho thấy khi kết hợp với nhịn ăn và dinh dưỡng chống ung thư, tác dụng phụ tai hại của hoá trị, xạ trị giảm đi hoặc không có và kết quả hoá trị và xạ trị công hiệu hơn.
Tất cả các liệu pháp trị ung thư, Tây y cũng như y học tự nhiên, đều có một mục tiêu chung là giết các tế bào ung thư. Không có liệu pháp nào có thể xác định sẽ thành công một trăm phần trăm. Nhưng ít nhất cũng làm tế bào ung thư yếu đi. Có liệu pháp làm hại cả tế bào bình thường, nhưng cũng có liệu pháp bảo vệ tế bào bình thường. Phối hợp vì vậy là cách tốt nhất để bảo vê mình và người thân khi cần.
Để có thể phối hợp các liệu pháp một cách hữu hiệu, chúng ta cần biết rõ hơn về các liệu pháp đó như sau
Các cách chữa trị ung thư đang dùng
1. Hoá trị (Chemotherapy)
Cách này dùng thuốc hoá chất tiêm hoặc uống vào cơ thể để giết các tế bào đang phát triển nhanh vì tế bào ung thư phát triển nhanh. Hoá tri gây ra nhiều tác dụng phụ tai hại vì cũng giết nhiều tế bào khác đang phát triển nhanh, nhất là tế bào trong tuỷ xương, tế bào gốc tóc, tế bào trong miệng, tế bào hệ tiêu hoá và sinh lý. Bệnh nhân dùng hoá trị vì vây thường bị mệt, rụng tóc, dễ bầm và chảy máu, nhiễm trùng, da tái nhợt, buồn nôn và mửa, ăn mất ngon, bón...
2. Giải phẫu
Cách này cắt bỏ phần nào của cơ thể có tế bào ung thư. Cách này không áp dụng được nếu nguy hiểm đến các bộ phận quan trọng khác và nhiều khi không cắt bỏ hết được tế bào ung thư đang phát triển mà chưa thấy.
Giải phẫu càng lớn thì càng nhiều nguy cơ bị biến chứng hay tác dụng phụ như chảy máu không cầm, máu đóng cục, tế bào bên cạnh bị hư hỏng, phản ứng thuốc dùng khi giải phẫu, làm hư hại bộ phận khác, đau đớn, nhiễm trùng, các chức năng khác chậm hồi phục.
3. Xạ trị (radiotherapy)
Cách này dùng quang xạ như tia x (x-rays), tia gamma, chùm tia điện tử (electron beams) hay proton để giết hoặc gây hại tế bào ung thư. Xạ trị làm vỡ DNA trong tế bào để cản không cho tê bào ung thư nhân ra và làm chúng chết vì tế bào ung thư có khuynh hướng nhân ra nhanh. Tế bào thường cũng bị ảnh hưởng nhưng hầu hết phục hồi và trở lại bình thường. Xạ trị không giết chết ngay tế bào ung thư. Sau nhiều ngày DNA mới bị thiệt hại đủ để tế bào ung thư chết. Rồi tế bào ung thư tiếp tục chết trong nhiều tuần nhiều tháng sau khi điều trị. Tuỳ theo loại ung thư và địa điểm bị ung thư mà bác sĩ dùng ngoại xạ trị hay nội xạ trị. Ngoại xạ trị dùng tia xạ quang từ ngoài cơ thể. Nội xạ trị đưa thuốc đặc biệt có phóng xạ vào người bằng cách uống hay tiêm vào máu.
Tác dụng phụ của xạ trị tuỳ theo loại và nơi nào trên cơ thể bị ung thư, độ mạnh của xạ trị, và sức khoẻ của người bệnh.
Tác dụng phụ sớm thấy trong thời gian sau khi trị liệu thường là mệt mỏi, da cảm thấy khác, hoặc rụng tóc, miệng khó chịu nếu đó là vùng được chữa trị. Những phản ứng phụ này ngắn hạn, không nghiêm trọng và trị được.
Tác dụng phụ khác có thể hiện ra sau nhiều tháng và năm. Tuỳ bộ phận cơ thể bị xạ trị mà tác dụng phụ lầu dài khác nhau và có thể nghiêm trọng. Chẳng hạn như xạ trị trên não sẽ có thể gây mất trí nhớ, rụng tóc, mất thính giác, vô cùng mệt mỏi...
4, Liệu pháp hoc mon (hormone therapy)
Cách này làm yếu hoặc giết tế bào ung thư nào cần hóc môn để sống và phát triển. Chỉ có ung thư vú (breast cancer) và ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer) mới có loại tế bào ung thư này. Liệu pháp này dùng thuốc tạm thời lấy đi khả năng sản xuất hoc môn của cơ thể, hoặc dùng thuốc can thiệp thay đổi chức năng của hóc môn trong cơ thể.
Liệu pháp này thường dùng để làm nhỏ ung bướu trước khi dùng phẫu thuật hoặc xạ trị. Cũng được dùng để giảm nguy cơ ung thư trở lại hoặc giết tế bào ung thư ở bộ phận khác hoặc trở lại.
Liệu pháp này có thể có tác dụng có hại như
- làm mất khả năng sinh lý
- làm yếu xương
- gây nóng bừng (hot flashes)
- tiêu chảy
- buồn nôn
- mệt mỏi
- ngực lớn và dễ đau
5. Liệu pháp miễn dịch (Immunotherapy)
- Ung thư bàng quang
- Ung thư não
- Ung thư vú
- Ung thư cổ tử cung (cervical)
- Ung thư trẻ em (childhood cancer) như ung thư hạch (lymphoma) ung thư não, ung thư máu (leukemia)
- Ung thư trực tràng (colorectal)
- Ung thư đầu và cổ
- Ung thư thận
- Ung thư máu
- Ung thư thực quản
- Ung thư phổi
- Ung thư gan
- Ung thư da (melonoma)
6. Chặn không cho tạo ra mạch máu mới (anti angiogenesis therapy)
- curcumin trong củ nghệ,
- artemisinin trong ngải cứu,
- EGCG trong trà xanh,
- resveratrol trong hạt nho đỏ,
- emodin trong cây đai hoàng (rhubarb),
- thymoquinone trong dầu hạt thì là đen (black cumin seed oil) và
- tocotrienols trong dầu cọ (palm oil) dầu cám (rice bran oil), dầu dừa.
Nhận xét
Đăng nhận xét